Giai đoạn 2 biểu hiện sưng hạch mủ cấp tính (hội chứng bẹn), kèm theo sốt và các triệu chứng toàn thân khác do nhiễm trùng lan rộng. với nhiều tên gọi viêm hạch lao, viêm rỗ hạch bạch huyết bẹn, bệnh Durand- Nicolas - Favre, u hạt bạch huyết bẹn hay là bệnh hoa liễu
Dương vật nổi hạt, nổi hạch có thể là biểu hiện sinh lý, phản ứng của cơ thể đối với các viêm nhiễm, nhưng đôi khi chúng cũng là dấu hiệu cảnh báo nhiều vấn đề nguy hiểm về sức khỏe cho nam giới mà chúng ta không nên chủ quan. Theo các chuyên gia y tế, hiện tượng nổi hạt, nổi hạch ở vùng kín nam còn là biểu hiện của một số bệnh lý sau đây: 1.
Để hiểu rõ từ "máu mủ", buộc ta phải xem lại việc hình thành "máu mủ" ấy. Từ chỗ hai vợ chồng hoàn toàn không có quan hệ huyết thống, (vì "vợ mình là con người ta!" ), hai người làm chuyện vợ chồng và kết quả là người vợ mang thai, đẻ con. Khi đứa con ra đời
Kháng sinh được dùng theo kinh nghiệm hoặc tốt nhất điều trị theo kết quả kháng sinh đồ. Thuốc nhỏ tai: Thường kết hợp kháng sinh với thuốc giảm viêm. Chích rạch màng nhĩ và dẫn lưu mủ: Khi soi tai nhận thấy màng nhĩ căng phồng cần chích rạch màng nhĩ để cho dịch
Chảy mủ tai là biểu hiện cho những trường hợp viêm tai mạn tính có chảy mủ. Nếu mủ có mùi thối đó là dấu hiệu của loại viêm tai nguy hiểm. Chảy mủ tai xảy ra ở trẻ em nếu không được chữa trị kịp thời, có dễ dẫn đến nhiều biến chứng nguy hiểm, thậm chí là tử vong. 1. Nguyên nhân gây chảy mủ tai ở trẻ
CẶP THUỐC YOMISUPER 23WP VÀ NO-VABA 100WP - ĐẶC TRỊ HÉO XANH VÀ HÉO RŨ TRÊN CÂY CÀ CHUA. METRIMEX 80WP - ĐẶC TRỊ CỎ TRÊN RUỘNG MÍA 175.000₫. NIKO 72WP - THUỐC ĐẶC TRỊ BỆNH SƯƠNG MAI, MỐC SƯƠNG, NỨT THÂN XÌ MỦ 0₫. BAKARI 512EC - THUỐC ĐẶC TRỊ SÂU VẼ BÙA GÂY HẠI TRÊN CÂY
dkSbPC. U hạt và viêm đa mạch được đặc trưng bởi viêm u hạt hoại tử, viêm mạch vừa và nhỏ, viêm cầu thận hoại tử, thường tạo thành hình liềm. Thường ảnh hưởng tới đường hô hấp trên, đường hô hấp dưới và thận, nhưng cũng có thể ảnh hưởng tới bất kỳ cơ quan nào. Các triệu chứng khác nhau tùy thuộc vào các cơ quan và hệ thống bị bệnh. Bệnh nhân có thể có các triệu chứng của đường hô hấp trên và dưới như chảy máu mũi, xuất huyết, ho, sau đó là cao huyết áp, phù hoặc có các triệu chứng của các cơ quan bị tổn thương. Chẩn đoán thường đòi hỏi phải sinh thiết. Điều trị bằng corticosteroid kết hợp với một thuốc ức chế miễn dịch. Điều trị thường có thể đạt được lui bệnh nhưng hay tái hạt với viêm đa mạch GPA gặp ở khoảng 1/ người; thường gặp nhất ở người da trắng nhưng cũng có thể gặp ở các dân tộc thiểu số và ở bất kỳ độ tuổi nào. Tuổi khởi phát trung bình là 40 nhân của GPA chưa rõ, nhưng có vai trò của cơ chế miễn dịch. Hầu hết các bệnh nhân có bệnh tiến triển toàn thể có kháng thể kháng bào tương của bạch cầu đa nhân trung tính ANCA. Các u hạt điển hình bao gồm các tế bào biểu mô dạng mô bào và thường có các tế bào khổng lồ. Có mặt các tương bào, bạch cầu lympho, bạch cầu đa nhân trung tính và bạch cầu ái toan. Tình trạng viêm ảnh hưởng tới các mô và mạch máu; viêm mạch có thể là một phần nhỏ hoặc lớn của bệnh. Các ổ hoại tử nhỏ, thường có bạch cầu đa nhân trung tính các ổ vi áp xe xuất hiện sớm. Hoại tử nhỏ tiến triển thành ổ hoại tử lớn. Vùng trung tâm của hoại tử được gọi là hoại tử địa lý được bao quanh bởi các tế bào lympho, tương bào, đại thực bào và các tế bào khổng lồ. Xung quanh khu vực này là vùng tăng sinh của các tế bào xơ và được bao quanh bởi các mô mạn tính không đặc hiệu và hoại tử mô có thể xuất hiện ở mũi. Toàn bộ các triệu chứng mô bệnh học được biểu hiện rõ nhất ở phổi, nhưng các đặc điểm chẩn đoán không điển hình trên các mảnh sinh thiết nhỏ được thực hiện xuyên thành phế quản. Ở thận, tổn thương thường gặp nhất là viêm cầu thận cục bộ hình liềm ít miễn dịch với hoại tử và huyết khối tại các quai thận hoặc các ống thận lớn hơn. Các tổn thương mạch và u hạt lan tỏa ít gặp. Đường hô hấp trên Đau xoang, chảy nước mũi trong hoặc dịch mủ, có thể chảy máu mũi. Niêm mạc xuất hiện các hạt giống như đá cuội, dễ vỡ; các vết loét, vỏ đen dày và thủng vách mũi thường gặp. Viêm sụn mũi có thể gây sưng, đau và gãy gốc mũi mũi gãy. Bệnh nhân có thể có tiền sử viêm xoang tái phát đáp ứng không đầy đủ với nhiều loại kháng sinh và cần phẫu thuật xoang một hoặc nhiều lần trước khi được chẩn đoán. Có thể có nhiễm trùng thứ phát ví dụ, do Staphylococcus aureus. Hẹp dưới thanh môn gây các triệu chứng như đau thanh quản, khàn giọng, khó thở, khò khè, và thở rít có thể Viêm tai, giảm thính lực, chóng mặt và viêm sụn có thể gặp. Tai giữa, tai trong, và xương chũm thường bị ảnh Có thể đỏ và sưng lên. Viêm và tắc ống mũi lệ, viêm kết mạc, viêm củng mạc mắt, viêm màng bồ đào, hoặc viêm mạch võng mạc có thể xảy ra. Thâm nhiễm viêm trong khoang sau hốc mắt giả u hốc mắt có thể gây lồi mắt, chèn ép dây thần kinh thị và mù. Lan rộng tới các cơ quanh hốc mắt dẫn tới nhìn đôi. Nếu xuất hiện các triệu chứng mắt nguy hiểm, cần đánh giá và điều trị ngay lập tức tránh mù vĩnh hô hấp dưới Các biểu hiện hô hấp là phổ biến. Viêm phế quản lớn và các nhánh của nó có thể gây ran ngáy khu trú, viêm phổi sau tắc nghẽn và xẹp phổi. Tổn thương một hoặc nhiều nốt ở phổi, có thể có hoặc không có hang, các tổn thương thâm nhiễm vào nhu mô đôi khi gây ra các triệu chứng như đau ngực, khó thở và ho có đờm. Khó thở kèm theo tổn thương thâm nhiễm cả hai trường phổi, có thể có hoặc không có ho máu, có thể là dấu hiệu của xuất huyết phế nang và cần phải được đánh giá ngay lập Bệnh động mạch vành có thể gặp nhưng thống cơ xương khớp Bệnh nhân thường có biểu hiện đau cơ, đau các khớp hoặc viêm khớp không có tổn thương phá hủy Có thể xuất hiện các sẩn xuất huyết, các nốt dưới da đau, mụn sẩn, viêm mạch mạng xanh tím hoặc thần kinh Viêm mạch có thể gây ra bệnh lý thần kinh ngoại biên do thiếu máu cục bộ, tổn thương não hoặc lan rộng tình trạng viêm vào mô thần kinh từ các vị trí lân cận. Các tổn thương có nguồn gốc từ các xoang hoặc tai giữa có thể phát triển trực tiếp ra vùng sau hầu và nền sọ, dẫn tới bệnh lý thần kinh sọ, lồi mắt, đái tháo nhạt hoặc viêm màng thống tĩnh mạch Huyết khối tĩnh mạch sâu có thể xuất hiện ở chi dưới, đa số là trong trường hợp bệnh u hạt với viêm đa mạch hoạt cơ quan khác Đôi khi, xuất hiện khối viêm ở vú, thận, tuyến tiền liệt hoặc các cơ quan khác. Xét nghiệm định kỳ, bao gồm xét nghiệm nước tiểuXét nghiệm kháng thể kháng bào tương của bạch cầu đa nhân trung tính CT ngực và xoang mũiSinh thiết để chẩn đoán xác địnhCần nghĩ tới u hạt với viêm đa mạch ở những bệnh nhân có các triệu chứng và dấu hiệu đường hô hấp mạn tính, không giải thích được bao gồm cả viêm tai giữa ở người lớn, đặc biệt là khi có những biểu hiện ở các cơ quan khác, nhất là thận, cũng gợi ý chẩn đoán. Các xét nghiệm thông thường trong phòng thí nghiệm được thực hiện, nhưng xét nghiệm ANCA và sinh thiết chọn lọc các mô liên quan mang lại kết quả cụ thể nhất. Sinh thiết mô mũi hiếm khi đưa ra chẩn đoán xác xét nghiệm thường quy bao gồm tốc độ máu lắng, protein phản ứng C, công thức máu, công thức bạch cầu, albumin và tổng protein huyết thanh, creatinine huyết thanh, tổng phân tích nước tiểu, protein niệu 24 giờ và chụp X-quang ngực. CT mũi xoang có thể cho thấy niêm mạc xoang dày lên hoặc mờ, thủng vách ngăn mũi và tổn thương xương. Chụp CT ngực không có thuốc cản quang là cần thiết vì phim X-quang ngực thông thường có thể bỏ sót các tổn thương như các nốt, khối và/hoặc các tổn thương dạng hang gây ra do u hạt bạch cầu ái toan với viêm đa khớp. Hầu hết các bệnh nhân trong đợt bệnh tiến triển có tốc độ máu lắng và protein phản ứng C tăng, albumin và protein tổng trong huyết thanh giảm, thiếu máu, giảm tiểu cầu, bạch cầu giảm nhẹ hoặc vừa. Hồng cầu bất thường về hình thái, xuất hiện trụ hồng cầu trong nước tiểu là dấu hiệu chỉ điểm tổn thương cầu thận. Có thể có protein niệu. Có thể tăng creatinine huyết thanh. Xét nghiệm huyết thanh để phát hiện kháng thể kháng bào tương bạch cầu đa nhân trung tính ANCA, sau đó là các xét nghiệm ELISA để phát hiện các kháng thể đặc hiệu. Hầu hết bệnh nhân bệnh hoạt động có ANCA bào tương c-ANCA, và các kháng thể kháng proteinase-3 PR3 dương tính; những dấu hiệu này kết hợp với các dấu hiệu đặc trưng trên lâm sàng gợi ý số bệnh nhân có các bệnh lý khác kèm theo như viêm nội tâm mạc do vi khuẩn, lạm dụng cocaine, lupus ban đỏ hệ thống, bệnh do amip, lao, xét nghiệm ANCA dương tính. Do các xét nghiệm để chẩn đoán bệnh có khả năng bị dương tính giả trong cộng đồng và giá trị dự đoán dương tính khi xét nghiệm ANCA dương tính là khoảng 50%, do đó xét nghiệm ANCA chỉ nên chỉ định ở những bệnh nhân có nguy cơ trung bình hoặc cao bị GPA hoặc các bệnh lý viêm mạch liên quan tới ANCA khác ví dụ như những bệnh nhân chảy máu phế nang, viêm thận cầu thận hoặc bệnh lý đơn dây thần kinh đa ổ và các biểu hiện khác của viêm đa vi mạch hoặc GPA. Xét nghiệm ANCA dương tính không loại trừ được các tổn thương nhiễm trùng do vi khuẩn không điển hình và nấm; do đó với bệnh nhân ANCA dương tính và có tổn thương dạng hang ở phổi vẫn cần nội soi phế quản, xét nghiệm nuôi cấy và các xét nghiệm khác để loại trừ lao và nhiễm nấm. Không nên dùng xét nghiệm ANCA chuẩn độ để hướng dẫn điều trị tiếp theo. Trong thời gian lui bệnh, ANCA có thể tăng lên hoặc chuyển từ âm tính sang dương tính. Một số bệnh nhân không có triệu chứng tái phát; số khác có thể có các triệu chứng tái phát hoặc xấu đi ngay sau khi được làm xét nghiệm hoặc trong vài tuần, vài tháng hoặc vài năm tiếp làm sinh thiết để xác định chẩn đoán GPA. Các vị trí có triệu chứng bất thường trên lâm sàng nên được sinh thiết trước. Sinh thiết mô phổi tổn thương có khả năng tìm thấy các dấu hiệu điển hình nhất, mổ nội soi lồng ngực là phương pháp tiếp cận tốt nhất. Nuôi cấy mảnh sinh thiết phổi hoặc xoang để loại trừ nhiễm khuẩn. Sinh thiết thận thấy tổn thương viêm thận cầu thận hình liềm hoặc không có hình liềm thành ổ hoại tử ít miễn dịch gợi ý chẩn đoán. Sinh thiết nhiều vị trí khác nhau cũng có thể cung cấp các thông tin giải phẫu bệnh giúp định hướng điều trị như xơ hóa thận.Chẩn đoán phân biệt bao gồm các bệnh lý của mạch máu nhỏ và vừa khác. Nhiễm khuẩn, đặc biệt là những tổn thương do nấm phát triển chậm hoặc các vi khuẩn kháng axit, nên được loại trừ bằng cách nhuộm và nuôi cấy các mẫu bệnh phẩm. Tiên lượng phụ thuộc vào mức độ nặng và phạm vi của bệnh và ít nhất là vào tốc độ điều trị diễn ra như thế thuốc ức chế miễn dịch trong trường hợp bệnh nặng đã cải thiện đáng kể tiên lượng của bệnh. Nếu được điều trị, khoảng 80% bệnh nhân có thể đạt lui bệnh hoàn toàn, nhưng khoảng một nửa số đó sẽ tái phát, tái phát có thể xuất hiện trong khi đang điều trị duy trì lui bệnh hoặc sau khi kết thúc điều trị thường là sau nhiều năm. Bắt đầu lại với liều khởi đầu hoặc tăng liều điều trị thường có thể kiểm soát được bệnh. Tuy nhiên, 90% bệnh nhân có các bệnh lý khác kèm theo do hậu quả của bệnh và/hoặc do điều trị. Để đạt được lui bệnh trong trường hợp GPA de dọa tính mạng hoặc tổn thương cơ quan, sử dụng liều cao corticosteroid kết hợp với cyclophosphamide hoặc rituximab. Để đạt lui bệnh trong GPA ít nghiêm trọng, sử dụng corticosteroid kết hợp với methotrexate hoặc duy trì lui bệnh, sử dụng rituximab đơn độc hoặc thuốc khác như methotrexate, azathioprine, hoặc mycophenolate mofetil rituximab kết hợp với một hoặc các thuốc còn lại, đôi khi kết hợp với corticosteroid liều thấp, nếu bệnh nhân tái phát nhiều lần hoặc GPA khó kiểm soátGhép thận nếu cầnĐiều trị u hạt với viêm đa mạch phụ thuộc vào mức độ nặng của bệnh. Phối hợp nhiều chuyên khoa trong trường hợp tổn thương nhiều cơ quan, thường bao gồm một bác sĩ thấp khớp học, bác sĩ tai mũi họng, hô hấp và thận. Bệnh nhân có những biểu hiện nặng đe dọa tới tính mạng hoặc cơ quan như xuất huyết phế nang, viêm cầu thận tiến triển nhanh, bệnh lý đơn dây thần kinh đa ổ cấp tính cần phải nhập viện ngay lập tức để điều trị nhằm mục đích đạt lui bệnh. Những bệnh nhân này cần điều trị bằng corticosteroid liều cao và cyclophosphamide hoặc rituximab xem Gây cảm ứng để đạt lui bệnh Khởi đầu điều trị Viêm mạch là bệnh lý viêm các mạch máu, thường dẫn tới thiếu máu, hoại tử và tổn thương viêm ở các cơ quan. Viêm mạch có thể xuất hiện ở bất kỳ mạch máu nào - các động mạch, tiểu động mạch,... đọc thêm . Hiệu quả của rituximab và cyclophosphamide có vẻ tương tự nhau trong việc đạt được lui bệnh và duy trì lui bệnh 1 Tài liệu tham khảo về điều trị U hạt và viêm đa mạch được đặc trưng bởi viêm u hạt hoại tử, viêm mạch vừa và nhỏ, viêm cầu thận hoại tử, thường tạo thành hình liềm. Thường ảnh hưởng tới đường hô hấp trên, đường hô hấp dưới... đọc thêm . Trao đổi huyết tương đã không được chứng minh là làm giảm tỷ lệ tử vong hoặc bệnh thận giai đoạn cuối 2 Tài liệu tham khảo về điều trị U hạt và viêm đa mạch được đặc trưng bởi viêm u hạt hoại tử, viêm mạch vừa và nhỏ, viêm cầu thận hoại tử, thường tạo thành hình liềm. Thường ảnh hưởng tới đường hô hấp trên, đường hô hấp dưới... đọc thêm .Rituximab dường như đặc biệt hữu ích trong việc giảm nguy cơ tái phát. Trong một nghiên cứu trên bệnh nhân GPA và các bệnh viêm mạch liên quan với ANCA khác, các tổn thương tái phát xảy ra ở khoảng 5% bệnh nhân được điều trị với rituximab nhưng với những bệnh nhân được điều trị bằng azathioprine thì tỷ lệ này là 29% 3 Tài liệu tham khảo về điều trị U hạt và viêm đa mạch được đặc trưng bởi viêm u hạt hoại tử, viêm mạch vừa và nhỏ, viêm cầu thận hoại tử, thường tạo thành hình liềm. Thường ảnh hưởng tới đường hô hấp trên, đường hô hấp dưới... đọc thêm . Nên sử dụng rituximab đơn độc hay kết hợp với một loại thuốc khác, liều và thời gian sử dụng rituximab như thế nào thì vẫn chưa rõ ràng. Tuy nhiên, trong một nghiên cứu hồi cứu, tỷ lệ tái phát thấp hơn khi phối hợp rituximab với methotrexate, azathioprine hoặc mycophenolate mofetil hơn là sử dụng rituximab đơn độc. Liều tối ưu rituximab trong điều trị duy trì chưa được xác định. Sử dụng corticosteroid liều thấp thường được sử dụng để duy trì lui bệnh. Trường hợp bệnh ít nguy hiểm, corticosteroid và methotrexate được sử dụng để đạt được lui bệnh. Rituximab có thể được sử dụng thay cho methotrexate. Trường hợp có các biểu hiện trên đường hô hấp trên, rituximab có vẻ giúp duy trì lui bệnh tốt hơn cyclophosphamide, methotrexate hay liều corticosteroid tới liều thấp nhất có thể hoặc ngừng mũi xoang bằng nước muối, kết hợp hoặc không kết hợp với thuốc mỡ bôi mũi mupirocin 2%, giúp giảm các mảng bám và nhiễm khuẩn do tụ cầu vàng thứ trị hẹp đoạn dưới thanh môn là khó. Các thuốc ức chế miễn dịch toàn thân có thể không hiệu quả. Tiêm corticosteroid tác dụng kéo dài vào trong tổn thương, với tác dụng giãn nở nhẹ nhàng, tăng dần, làm tăng hiệu quả đáng kể và giảm tỷ lệ phải mở thông khí nhân cần được hướng dẫn về các dấu hiệu bệnh tái phát để có thể phát hiện sớm các dấu hiệu. Ghép thận đã được thực hiện thành công; nguy cơ tái phát sau ghép giảm so với điều trị lọc máu duy trì một phần có thể là do sử dụng các thuốc ức chế miễn dịch để chống thải ghép. 1. Stone JH, Merkel PA, Spiera R, et al Rituximab versus cyclophosphamide for ANCA-associated vasculitis. N Engl J Med 363221–232, 2010. doi Walsh M, Merkel PA, Peh CA, et al Plasma exchange and glucocorticoids in severe ANCA-associated vasculitis. N Engl J Med 3827622-631, 2020. doi 3. Guillevin L, Pagnoux C, Karras A, et al Rituximab versus azathioprine for maintenance in ANCA-associated vasculitis. N Engl J Med 3711771–1780, 2014. doi Trong u hạt với viêm đa mạch, tổn thương viêm các mạch máu nhỏ và vừa có thể ở bất kỳ cơ quan nào, đặc biệt là thận gây viêm cầu thận, đường hô hấp trên và dưới với viêm hạt nhu mô hoại tử, thường nổi bật hơn so với viêm thể biểu hiện trên các cơ quan khác nhau và thường bao gồm các triệu chứng của đương hô hấp trên và dưới như chảy nước mũi tái phát hoặc chảy máu cam, ho sau đó là tăng huyết áp, phù do liên quan đến thận.Chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm kháng thể kháng bào tương bạch cầu đa nhân trung tính và sinh thường tái phát và điều trị có thể gây ra các biến chứng kèm lui bệnh bằng corticosteroid kết hợp với một thuốc ức chế miễn trì lui bệnh bằng methotrexate, azathioprine, hoặc rituximab và giảm liều corticosteroid.
U mi mắt là u xuất phát từ mi mắt có thể là u lành tính hoặc ác tính, chỉ ảnh hưởng tới thẩm mỹ hay ảnh hưởng cả tới chức năng của mi có khi cản trở tầm nhìn của mắt. Trong các loại u ở mắt thì u mi mắt là một trong hai loại hay gặp nhất. Được chia làm nhiều loại như sau I. Các loại u mi mắt nguồn gốc biểu mô Các u lành tính – U nhú là sự phát triển của biểu mô có dạng nhiều thùy như bắp cải và mỗi thùy chứa một lõi mạch máu ở trung tâm. Nhiều tổn thương khác nhau ở mi mắt có thể phát triển thành u nhú như mụn cơm, dày sừng quang hóa, dày sừng bã. – U sừng – gai là u lành hoạt tính phát triển nhanh 6-8 tuần. u sừng gai là một khối nhô lên của da, lớn, gần như hình tròn, chưa một lõm rốn keratin ở trung tâm, không có loạn sản. Thường được điều trị bằng cách cắt bỏ. – Dày sừng tăng tiết bã nhờn là một loại u da rất thường gặp ở người lớn tuổi. U cso hình khuy áo nổi trên mặt da, bề mặt màu nâu nhạt, nhờn và có dạng mụn cơm nhỏ. Thường không có viêm trừ khi xảy ra kích thích cơ học hay chấn thương. Dễ bị nhầm với tổn thương tiền ác tính là dày sừng quang hóa. – Dày sừng nhú lộn ngược thường được xếp là một loại tăng sản giả u biểu mô, nhưng bản chất là một dạng dày sừng bã nhờn bị viêm và kích thích. Khối u thường có nhú, những chỗ dày sừng bị lõm vào từ bề mặt thường bắt nguồn từ nang lông. – U nang dạng biểu bì, u nang vùi biểu bì, u nang bã nhờn là những khối biểu bì, tròn, nhẵn bao gồm một vòng tế bào gai bao quanh các mảnh tế bào và keratin. U nang dạng bì dùng để chỉ u nang dạng biểu bì bên trong có chứa các cấu trúc phụ của da. Còn u nang bã nhờn thực sự hiếm gặp bên trong được lát bởi những tế bào bã nhờn, ở giữa có chưa chất lipid ứ đọng giống như phomat. U nang bã nhườn là do ống tuyến bã bị bít tắc. Điều trị những u này cần cắt bỏ toàn bộ tổn thương, dẫn lưu đươn thuần không loại trừ được hoàn toàn các tế bào của thành u, chúng sẽ tiếp tục sinh ra keratin hoặc bã nhởn. – Các tổn thương do nhiễm trùng u mềm lây và mụn cơm là những tổn thương do nhiễm virut ở biểu bì. U mềm lây là những nốt nhẵn nổi lên, điển hình cso một lõm ở trung tâm, chúng nhỏ hơn và ít viêm hơn so với u sừng gai. Điều trị u mềm thường bằng cắt bỏ, nhưng u thường biến mất sau khi rạch hoặc nặn đơn giản hoặc cũng có thể điều trị bằng áp lạnh. Mụn cơm thường gặp và do virut u nhú của người gây ra. Thường gặp hơn ở người trẻ và trẻ em. Chúng là những tổn thương tăng sừng hóa dạng u nhú ở da, thường không có triệu chứng. Điều trị chủ yếu là cắt u, nhưng phải cắt toàn bộ nếu không sẽ làm phát tán virut và gây tái phát nhiều lần. Mụn cơm cũng có thể tự mất trong vòng vài tháng đến 2 năm nên có một số trường hợp không cần điều trị. Các u tiền ác tính Dày sừng quang hóa do tuổi già hoặc do mặt trời khối u là tiền triệu của carcinoma tế bào gai. Dày sừng quang hóa là những tổn thương có tăng sừng hóa, dày lớp gai, di sản, xuất hiện ở những vùng da hở của người già phơi nắng quá nhiều trong thời gian dài. Thường có viêm mạn tính ở chân bì và nhiều tổn thương. Khoảng 25% bệnh nhân dày sừng quang hóa xuất hiện carcinoma tế bào gai ở một hoặc nhiều tổn thương này. Khô da sắc tố đây là bệnh di truyền lặn đặc trưng bằng tổn hại khả năng sửa chữa AND do ánh nắng gây ra. Vùng da hở xuất hiện những vùng tăng sắc tố, teo và giãn mao mạch trong khoảng 10 – 20 tuổi. Về sau xuất hiện nhiều khối u da, bao gồm carcinoma tế bào gai, tế bào đáy và u hắc tố. Các u ác tính Carcinoma tế bào đáy là u ác tính thường gặp nhất của mi mắt. vùng quanh hốc mắt là vị trí thường gặp nhất của u này. Khối u bắt đầu bằng một vết loét nhỏ, cứng, bờ loét thường nối cao, tăng sừng hóa. U phát triển rất chậm nhưng sau nhiều năm có thể đạt kích thước rất lớn. Carcinoma tế bào đáy xâm lấn dần và hủy hoại tại chỗ nưhng hiếm khi di căn. Tuy nhiên nếu không được phát hiện và xử trí chúng có thể xâm lấn rộng dưới da, xương thậm chí cả não. Ranh giới sâu và ngoại vi khó phân định nên có thể tái phát sau khi không cắt hết khối u. Vì vậy cần xét nghiệm mô bệnh học sau phẫu thuật. Các phương pháp bổ sung cho phẫu thuật gồm có chiếu tia, áp lạnh hoặc phương pháp hóa phẫu thuật. Carcinoma tế bào gai chiếm 5% tổng số u ác tính ở mi mắt, có liên quan đến sự tiếp xúc lâu dài với ánh nắng. Carcinoma tế bào gai thường gặp ở mi trên, phát triền chậm, nằm tại chỗ trong thời gian dài, nhưng cuối cùng có thể di căn tới hạch lympho khu vực hoặc những vị trí và nội tạng ở xa. II. Các u tuyến và u phần phụ cận Các u lành và carcinoma tuyến bã tăng sản và u tuyến bã thường xảy ra ở tuyến Meibomius nhưng ít phổ biến. Carcinoma tuyến bã thường gặp hơn và thường bị chẩn đoán nhầm là viêm mi – kết mạc mạn tính hoặc chắp tái phát. Carcinoma tuyến bã thường khởi đầu ở mi mắt nhiều hơn những vị trí khác. Rất ác tính, có tỉ lệ tử vong do di cản ít nhất 20% mặc dù được điều trị. Điều trị Carcinoma tuyến bã lý tưởng nhất là cắt bỏ trên diện rộng, có hoặc không kèm theo chiếu tía bổ xung. Liệu pháp chiếu tía đơn độc đôi khi có hiệu quả nhưng không chắc chắn. – Các u lành và Carcinoma của tuyến mồ hôi u lành tính cảu tuyến mồ hôi của mi mắt bao gồm tuyến Moll khá phổ biến và được phân loại theo mô bệnh học và mức độ biệt hóa. Trong khi đó Carcinoma tuyến mồ hôi rất hiếm gặp, chúng có thể có nguồn gốc tuyến ngoại tiết hoặc bán hủy. – Các u của nang lông là u lành tính xuất phát từ các tế bào nang lông của biểu bì. Đó là tổn thương dạng nốt, nhẵn, cso nhiều nang keratin bao quanh bởi những tế bào đáy nằm bên trong chân bì. III. Các u nguồn gốc ngoại bì thần kinh Những tổn thương sắc tố lành tính – Vết tàn nhang là chấm nhỏ, dẹt, màu nâu ở trên da, do tăng sắc tố ở lớp đáy biểu bì. – Nốt ruồi là những khối giả u bẩm sinh bao gồm những ổ hắc tố bào đã bị biến đổi. Nốt ruồi thường có sắc tố nhạt, hoặc k rõ o trẻ nhỏ nhưng khi tuổi cao lên nốt ruồi di chuyển xuống chân bì đồng thời kém hoạt động hơn. – U hắc tố u hắc tố nguyên phát của mi mắt hiếm gặp hơn u hắc tố của da ở những vị trí khác. U hắc tố có thể phát sinh từ nốt ruồi ranh giới hoặc nốt ruồi hỗn hợp vốn có, nhưng hiếm khi sinh ra từ nốt ruồi chân bì. Sự phát triển của khối u cũng có thể nhanh đến mức che khuất nốt ruồi bên dưới. – Nốt ruồi son ác tính thường thấy trên mặt những bệnh nhân lớn tuổi và có thể liên quan tới sự phơi nắng. tổn thương tiền ác tính này có mức độ sắc tố khác nhau, bờ không đều, lan rộng và thoái triển theo từng đợt Các u thần kinh – U xơ thần kinh u xơ thần kinh của mi là một bệnh di truyền trội đặc điểm quan trọng là có nhiều khối u da làm mi to ra và biến dạng nhiều. – U bao Schwann là u bao thần kinh lành tính, đơn độc, ít gặp, thường có vỏ bao bọc. Chúng thường phát sinh từ hốc mắt nhưng có thể xảy ra ở da, kể cả mi mắt. IV. Các u mạch – U mạch mao mạch loại u mi mắt này xuất hiện ngay từ khi sinh ra, lành tính. Chúng to ra trong 18 tháng đầu sau đó thoái triển trong vóng 5-8 năm. Có thể điều trị bằng tiêm Corticoid vào trong tổn thương. – U mạch hang gồm những mạch máu rãn to, ít có khả năng tự thoái triển. U này hiện nay được điều trị abừng laser argon cho kết quả tốt. – U tế bào nội mạc và u tế bào ngoại mạc Đây là tăng sinh lành tính của các tế bào nội mạc, ngoại mạc mạch máu. Có khả năng chuyển thành ác tính nhưng hiếm. – U bạch mạch chủ yếu xuất hiện ở hốc mắt nhưng cũng có thể ở mi mắt. – U hạt ác tính Sarcoma Kaposi u bao gồm nhiều mao mạch tăng sinh, tế bào nội mạc, tế bào dạng nguyên bào sợi không điển hình. Thường gặp ở những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch, bệnh ưa chảy máu, lây qua đường tình dục. Có nhiều phương pháp điều trị u này như hóa chất, chiếu tía, liệu pháp miễn dịch, cắt bỏ tổn thương hoặc áp lạnh. V. Các u vàng – Ban vàng là u mô bào, lành tính biểu hiện bằng một mảng màu vàng ngay dưới biểu bì. Thường gặp ở nữ giới, nhiều nhất ở vùng góc trong mi trên và mi dưới. Không có viêm. Điều trị bằng laser hay cắt bỏ. – U vàng xơ tương tự như ban vàng nhưng trong tổ chức chứa nhiều mô xơ, thường có viêm và ít biến đồi ác tính. – Bệnh mô bào huyết rất hiếm, biểu hiện bằng những ổ tổn thương nhỏ tương tự u hạt vàng ở người trẻ. – U hạt vàng ở người trẻ khối u lành tính, xảy ra ở trẻ em. U gồm nhiều tổn thương ở các vùng khác nhau của da, có thể xảy ra ở mống mắt và hốc mắt. U tròn, nhẵn, màu da cam. U hạt vàng ở người trẻ có thể tự tiêu. VI. Những tổn thương viêm – Lẹo là những nốt viêm mủ cấp tính của mi mắt. Thường do nhiễm tụ cầu vàng. Điều trị bằng kháng sinh, chườm ấm, đôi khi phải trích dẫn lưu. – Chắp u hạt mạn tính xuất phát từ tuyến Zeis hoặc tuyến Meibomius bị bít tắc. Tổn thương có thể tiêu đi sau nhiều ngày, nhiều tháng để lại phần mô sẹo nhỏ. – U hạt sinh mủ là khối gồ lên đỏ như thịt bò, có cuống, có thể xuất phát từ da hoặc niêm mạc, bao gồm kết mạc, tiết tố mủ hoặc nhày mủ. Mô hạt có thể được cắt bỏ, có thể tự mất đi do tróc đột ngột hoặc thu nhỏ dần. Có thể dùng Corticoid tiêm hoặc tra tại chỗ. – Bệnh Sarcoit xảy ra ở mi mắt, kết mạc và mô nội nhãn. Là u hạt riêng rẽ, không sinh bã đậu. Các viêm khác do nhiễm trùng hoặc ký sinh trùng VII. Các u di căn Bất kỳ loại u mi mắt di căn nào cũng có thể xuất hiện ở mi mắt, nhưng hiếm gặp. Vị trí hay gặp nhất là hắc mạc và hốc mắt. Bệnh viện Mắt Sài Gòn Bs. Nguyễn Thị Phương
Chuyên gia y tế của bài báo U hạt nhỏ nguyên nhân, biến chứng, loại bỏ và điều trị thay thế , Biên tập viên y tế Đánh giá lần cuối хTất cả nội dung của iLive đều được xem xét về mặt y tế hoặc được kiểm tra thực tế để đảm bảo độ chính xác thực tế nhất có thể. Chúng tôi có các hướng dẫn tìm nguồn cung ứng nghiêm ngặt và chỉ liên kết đến các trang web truyền thông có uy tín, các tổ chức nghiên cứu học thuật và, bất cứ khi nào có thể, các nghiên cứu đã được xem xét về mặt y tế. Lưu ý rằng các số trong ngoặc đơn [1], [2], là các liên kết có thể nhấp vào các nghiên cứu này. Nếu bạn cảm thấy rằng bất kỳ nội dung nào của chúng tôi không chính xác, lỗi thời hoặc có thể nghi ngờ, vui lòng chọn nội dung đó và nhấn Ctrl + Enter. Dịch tễ học Nguyên nhân Sinh bệnh học Triệu chứng Giai đoạn Các biến chứng và hậu quả Chẩn đoán Những gì cần phải kiểm tra? Làm thế nào để kiểm tra? Chẩn đoán phân biệt Điều trị Ai liên lạc? Phòng ngừa Dự báo Bệnh mãn tính, không điển hình, bệnh lý thực vật - u hạt mốc - xảy ra ở những nơi có nhiễm khuẩn lâu dài thường là tụ cầu. Vì vậy, u hạt sinh thường được tìm thấy trong khoang miệng, gần các móng móng hoặc rò. [1], [2], [3], [4], [5] Dịch tễ học Hầu hết các u hạt có hạt ở trẻ em trai, ở độ tuổi lên đến 3 năm, cũng như từ sáu đến 15 tuổi. Ngoài ra, u hạt ở 1-2% trường hợp được tìm thấy ở phụ nữ trong thời kỳ mang thai hoặc mãn kinh, có liên quan đến sự thay đổi hóc môn trong cơ thể. [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12] Nguyên nhân u hạt mỡ Lý do chính xác khiến một người có thể bị u hạt không điển hình, vẫn chưa được xác định. Các chuyên gia gợi ý rằng nhiều bệnh nhiễm trùng, chấn thương, các bệnh khác hoặc thậm chí vệ sinh cơ thể quá cẩn thận có thể gây ra sự phát triển của nó. Khoảng 25% trường hợp u hạt có hạt có liên quan đến sự vi phạm tính toàn vẹn của da, với các vết bỏng. Có nhiều trường hợp khi bệnh do hậu quả của việc lạm dụng thuốc tránh thai kéo dài của phụ nữ hoặc sử dụng một số loại thuốc bên ngoài. Cô lập các yếu tố nguy cơ bên ngoài và bên trong, sự hiện diện của nó làm tăng nguy cơ u hạt. Các yếu tố bên ngoài chấn thương da; không tuân thủ đầy đủ các quy tắc vệ sinh cá nhân, hoặc tuân thủ quá mức với chúng; rối loạn hoạt động tiết của da. Các yếu tố bên trong các bệnh truyền nhiễm; rối loạn hệ tiêu hoá; rối loạn nội tiết; rối loạn chuyển hóa; căng thẳng, tâm thần; ngộ độc, kể cả mãn tính; tình trạng suy giảm miễn dịch, AIDS. [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19] Sinh bệnh học U hạt nhỏ có thể xuất hiện như là kết quả của nhiều nguyên nhân. Từ đó, u hạt được chia thành nhiều loại Các u hạt nấm gây bệnh truyền nhiễm phát triển dựa trên các bệnh nhiễm trùng khác nhau, chẳng hạn như bệnh lao, nhiễm trùng đường tình dục, viêm não, vv Các u hạt không gây nhiễm không xuất hiện gần các lỗ rò, các yếu tố viêm, vùng da bị ô nhiễm, vv U hạt có nguồn gốc không rõ có thể là kết quả của hầu như bất kỳ bệnh nào, nhưng trong hầu hết các trường hợp, nguyên nhân gây ra sự xuất hiện của họ không thể được thiết lập. [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26] Triệu chứng u hạt mỡ Các dấu hiệu đầu tiên của u hạt sinh sản xuất hiện khoảng 15-20 ngày sau khi tác động của yếu tố kích động. Đầu tiên, giáo dục không khác nhau về kích thước và chỉ có một vài đường kính. Một số biến thể của u hạt có một chân, nhưng cũng có thể được đặt ở dạng một vòng tròn hoặc hình trụ. Trong hầu hết các trường hợp, u hạt có màu đỏ anh đào và trông giống như một nút thun đàn hồi dày đặc, các ranh giới của nó là mô tế bào bị tẩy tế bào chết. U hạt thường không kèm theo đau không ở nơi nghỉ ngơi và áp lực. U hạt nhỏ tăng kích thước khá nhanh đã có trong vòng 2-3 tuần đường kính của nó có thể đạt đến giới hạn. Sự hình thành dạng Pyogenic có thể dễ dàng bị hư hỏng, và thậm chí gây chảy máu hoặc hình thành các vết loét. Khi kiểm tra, viêm các hạch bạch huyết không phải lúc nào cũng được tìm thấy, nhưng chỉ khi có một nhiễm trùng thông thường. Trong hầu hết các trường hợp, u hạt nấm tạo thành như một nốt đơn. Nhiều tổn thương thường ít gặp hơn. U hạt có hạt có thể ngứa? Thật vậy, trong giai đoạn tăng trưởng tích cực, u hạt có thể gây cảm giác khó chịu dưới dạng ngứa và độ kín của da. Sau khi ngừng sự phát triển của khối u, cảm giác ngứa nên biến mất. U hạt u hạt ở da thường được khu trú ở chân trên, đặc biệt trên ngón tay, cũng như ở mặt và bàn chân. Trong thời kỳ mang thai, u hạt có thể hình thành trong khoang miệng - trên nướu hoặc trên bầu trời trên. U hạt mô ở vùng miệng má bên trái, cũng như vùng bên phải, có thể phát sinh dưới ảnh hưởng của vi sinh vật bị suy giảm, thường là hậu quả của viêm nha chu mãn tính. Như một quy tắc, một u hạt như vậy nằm ở gần răng bị ảnh hưởng từ phía của tổn thương và được đặc trưng bởi một giai đoạn chậm chạp và chậm chạp. Điều trị một khối u như vậy chỉ là phẫu thuật. U hạt tuyến tiền liệt trên bộ phận sinh dục ở hầu hết các trường hợp có nguồn gốc hoa liễu. Nhiễm trùng xảy ra với tình dục không được bảo vệ tình cờ. Ngoài u hạt, loét và nốt có thể hình thành trên bộ phận sinh dục. Đôi khi những hạch bạch huyết được mở rộng. U hạt trên cơ thể thường nằm ở chân bàn chân hoặc ngón tay. Lý do phổ biến nhất cho sự xuất hiện của u hạt này là tổn thương cơ học đối với da. Tuy nhiên, thường xuyên, đặc biệt là với sự thất bại của khu vực hông và đầu gối, nguyên nhân của bệnh vẫn còn chưa được thông báo. U hạt nhỏ ở lưỡi phát sinh khi không đủ chăm sóc cho khoang miệng, hoặc ở phụ nữ trong thời kỳ mang thai - do vi phạm sự cân bằng hoocmon. Một vấn đề tương tự - u hạt mỡ của nướu răng - có thể là kết quả của một chiếc răng không được điều trị không đúng cách, hoặc sự có mặt của răng hàm. Những khối u hạt này được loại bỏ bằng phẫu thuật, nhưng để ngăn ngừa tái phát triển khối u, nguyên nhân của sự xuất hiện nên được loại trừ. U hạt lao trên đầu có thể được đặt trên mí mắt, má, trên mũi, gần môi, và thậm chí trên tai. Vấn đề này phổ biến nhất ở thanh thiếu niên và thanh thiếu niên. Lý do, rất có thể, nằm ở những thay đổi hóc môn liên quan đến giai đoạn dậy thì. Ngoài ra, vấn đề có thể là thiếu sự đề kháng căng thẳng và sự thiếu toàn bộ tâm thần của hệ thần kinh. U hạt bạch đậu ở trẻ em thường được biểu hiện trước năm thứ 3 - chủ yếu là do thương tích và tổn thương da. Những u hạt này nhanh chóng phát triển và chảy máu. Hơn 70% u hạt ở trẻ em được đặt trên mặt hoặc cổ. U hạt nhỏ trong thời kỳ mang thai được tìm thấy ở 1-2% phụ nữ. Các chuyên gia giải thích điều này bằng sự có mặt của các rối loạn nội tiết, vì u hạt xuất hiện chủ yếu ở nửa đầu của thai kỳ - trong một thời kỳ biến động đáng kể về mức độ kích thích tố giới tính. Sự nội địa hóa cục bộ của u hạt ở những bệnh nhân mang thai là khoang miệng. Giai đoạn Cơ chế phát triển hạt u hạt mỡ xảy ra sau một vài giai đoạn Sự tích tụ trong khu vực hình thành bệnh lý của một số lượng lớn các thực bào đơn bào monocytic. Chuyển đổi cấu trúc tế bào thành đại thực bào, sự hình thành u hạt. Chuyển đổi các tế bào thực vật và các đại thực bào thành các biểu mô với sự hình thành hình thành biểu mô biểu mô. Kết hợp các đại thực bào với sự hình thành u hạt. Có tính đến quá trình trao đổi chất, u hạt phân huỷ khác nhau với sự chuyển hóa nhỏ và nhanh u hạt có chuyển hóa cường độ thấp phát triển do ảnh hưởng của chất trơ các cơ quan nước ngoài; u hạt với sự chuyển hóa nhanh phát sinh dưới ảnh hưởng của các yếu tố độc hại lao, phong, nhiễm độc, vv. U hạt tuyến tiền liệt, botryomycom là những thuật ngữ tương đương để biểu thị cùng một bệnh. Do đó, bác sĩ có thể sử dụng một tên đặc biệt khi chẩn đoán. [27], [28], [29], [30], [31], [32] Các biến chứng và hậu quả U hạt nhỏ là một nguồn tiềm năng của nhiễm trùng, cũng như sự hình thành khối u, có thể phức tạp do sự phát triển, lan rộng đến các bộ phận khác của cơ thể, viêm. Các biến chứng có thể ảnh hưởng xấu đến hoạt động của các cơ quan và hệ thống khác. Nếu nguyên nhân của u hạt không được xác định ban đầu, bệnh có thể biểu hiện chính nó một lần nữa và lần nữa, gây ra các vấn đề không chỉ thẩm mỹ, mà còn chức năng. [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44] Chẩn đoán u hạt mỡ Để phát hiện hạt u hạt cho một bác sĩ có kinh nghiệm không phải là một vấn đề. Đôi khi bác sĩ thậm chí không cần dùng đến một cuộc kiểm tra bổ sung của bệnh nhân. Tuy nhiên, vẫn có những trường hợp khi không cần phải làm mà không có các thủ tục chẩn đoán bổ trợ. Những trường hợp này bao gồm những người trong đó rất khó để xác định nguyên nhân gốc rễ của bệnh. Trước hết, cần phải có sự tư vấn của các chuyên gia khác nhau - đó có thể là bác sĩ phẫu thuật, bác sĩ da liễu, bác sĩ khoa học giải phẫu học, nha sĩ - phụ thuộc vào bộ phận nào của cơ thể đã xuất hiện nấm mốc. Hơn nữa, các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm và vi sinh học được quy định xét nghiệm máu và nước tiểu sẽ giúp xác định các căn bệnh và biến chứng; Các nghiên cứu vi sinh học huyết thanh học, PCR, nghiên cứu nuôi cấy sẽ giúp xác định được tác nhân gây bệnh của bệnh truyền nhiễm. Để có thể tiếp tục sử dụng kháng sinh, bác sĩ có thể kê toa kháng sinh. Chẩn đoán dụng cụ chẩn đoán siêu âm để loại trừ các bệnh về nội tạng; chụp động mạch để kiểm tra tình trạng của mạch máu; chụp cộng hưởng từ hoặc chụp cắt lớp vi tính để loại trừ các bệnh cột sống và cột sống; X-quang để loại trừ lao phổi. Ngoài ra, trong nhiều trường hợp, một cuộc kiểm tra mô học là cần thiết để phân biệt u hạt nấm từ sự hình thành ác tính. [45], [46], [47], [48], [49], [50], [51] Những gì cần phải kiểm tra? Làm thế nào để kiểm tra? Chẩn đoán phân biệt Chẩn đoán phân biệt được thực hiện với khối u ác tính amelanotic, khối u glomus, hemangiomas, một ung thư vảy, một ung thư biểu mô tế bào đáy, mụn cóc, angiomatosis trực trùng, sarcoma Kaposi và ung thư da di căn. U hạt u hạt và khối u ác tính không phải sắc tố cũng bị phân biệt U hạt u hạt thường có chân, không phải là đặc trưng của u ác tính; Granuloma có màu đỏ rất phong phú trong trường hợp cực đoan - xanh nhạt, nhưng nó không thể không màu hoặc đen, như khối u ác tính ác tính; U hạt nhỏ nấm bắt đầu chảy máu ngay cả với một liên lạc nhẹ; U hạt nấm phát triển rất nhanh, không được coi là điển hình của u ác tính. [52], [53], [54], [55], [56], [57], [58] Ai liên lạc? Điều trị u hạt mỡ Các thủ tục điều trị và các cuộc hẹn cho u hạt nấm được lựa chọn dựa trên nguyên nhân của bệnh. Nếu nguyên nhân xuất hiện u hạt là nhiễm trùng, bệnh nhân sẽ được điều trị bằng kháng sinh. Khi các trạng thái suy giảm miễn dịch đã dùng thuốc chống viêm và / hoặc điều trị hormone. Nếu u hạt có nấm xảy ra trong khoang miệng, thì trong hầu hết các trường hợp điều trị phẫu thuật của vấn đề được quy định. Thuốc men cho u hạt thường được kê toa, tuy nhiên, trong mọi trường hợp, không đảm bảo việc thải bỏ hoàn toàn bệnh. Kết quả của việc điều trị phụ thuộc vào, trước hết, là liệu nguyên nhân của khối u đã được loại bỏ. Nếu như một nguyên nhân vẫn còn chưa biết, đôi khi nó không thể loại bỏ nó. Các loại thuốc chính có liên quan đến một căn bệnh như u hạt sinh dưỡng như sau Thuốc chống viêm không steroid được thiết kế để ngăn chặn sự phát triển của u hạt và giảm bớt các dấu hiệu khó chịu của bệnh. Ví dụ, một loại thuốc như celecoxib thường được kê toa - loại thuốc này không ảnh hưởng xấu đến hệ tiêu hóa, nhưng nó cũng làm giảm đau và viêm. Celecoxib được dùng 100-200 mg mỗi ngày, cho một hoặc hai liều. Kháng sinh được kê toa cho các khối u hạt có tính chất truyền nhiễm. Loại thuốc được lựa chọn thường là Ciprofloxacin bên trong 750 mg hai lần một ngày hoặc Gentamicin tiêm bắp với liều 1 mg / kg trọng lượng cơ thể, ba lần một ngày. Các thuốc chống nấm không được sử dụng thường xuyên, nhưng chỉ trong trường hợp xác định nấm bệnh lý của u hạt. Trong số các thuốc kháng nấm thường dùng Fluconazole - 200-400 mg mỗi ngày. Thuốc kháng viêm nội tiết có thể được sử dụng trong điều kiện suy giảm miễn dịch. Ví dụ, trong những trường hợp như vậy, bạn có thể cần Sinaflan Ointment - nó được áp dụng 1-3 lần một ngày, nhẹ nhàng xát vào vùng bị ảnh hưởng. Không nên sử dụng ma túy nội tiết trong một thời gian dài, vì điều này có thể gây ra hiệu ứng "quen với" da. Thuốc Cytostatic là thuốc chống ung thư ức chế sự phát triển của tế bào. Những loại thuốc này chỉ được kê toa khi căn bệnh ác tính, hoặc trong trường hợp cơ chế phát triển một u hạt không điển hình cụ thể không được làm sáng tỏ đầy đủ. Ngoài các loại thuốc do chúng tôi liệt kê, bác sĩ chăm sóc có thể chỉ định điều trị phục hồi chức năng tổng quát và điều trị miễn dịch, bao gồm vitamin và các chất khác kích thích miễn dịch. Các loại thuốc này không có ảnh hưởng trực tiếp đến sự biến mất của u hạt sinh. Tuy nhiên, việc sử dụng chúng sẽ tránh được các biến chứng và tăng cường phản ứng miễn dịch của cơ thể đối với nhiễm trùng. Trong số các chế phẩm như vậy đặc biệt có thể phân biệt được Aevit; Complivit; Vitrum Làm đẹp; chiết xuất của echinacea. Trong một phương pháp phức tạp trong điều trị u hạt u sinh vật, điều trị vật lý trị liệu đã được chứng minh rất tốt. Thông thường, bác sĩ kê toa các thủ tục sau UFO điều trị; gliotherapy; UHF; siêu âm; điện di; phonophoresis; liệu pháp laser. Fizprotsdury chỉ được sử dụng khi đường lành tính u hạt được chẩn đoán. Điều trị thay thế Việc sử dụng thuốc thay thế trong u hạt sinh dưỡng nên được đồng ý với bác sĩ, để không làm hại sức khoẻ không thể khắc phục được. Khi các triệu chứng khó chịu xuất hiện đau nhức, viêm, phù nề, bạn có thể sử dụng các phương tiện thay thế đó Tincture của propolis có thể mua tại hiệu thuốc, hoặc nấu chín độc lập 30 g propolis nhấn mạnh 10 ngày trong 200 ml vodka. Khi bạch cầu được làm ẩm trong truyền với một đĩa bông và áp dụng cho vùng bị ảnh hưởng. Tincture of tỏi được chuẩn bị dựa trên 10 gram tỏi băm cho 50 ml vodka. Các tincture được giữ trong hai tuần ở nơi tối, đôi khi khuấy nội dung. Với granuloma, tincture được pha loãng 1 1 và được sử dụng để thiết lập nén. Khi bệnh viêm u hạt gây ra đề nghị sử dụng kem dưỡng da từ nước ép trái cây tươi. Đối với đau, rửa bột hạt với nước hành tươi. Cần lưu ý rằng khi sử dụng các phương pháp này, hoặc các phương pháp thay thế khác, bản thân granuloma sẽ không biến mất. Nó chỉ là làm giảm các triệu chứng của bệnh, và làm chậm sự phát triển của khối u. Có thể hoàn toàn thoát khỏi granuloma sinh sôi bằng phương pháp y học. [59], [60], [61], [62], [63], [64], [65] Điều trị thảo mộc Với bệnh u hạt sinh sôi truyền nhiễm, liệu pháp thảo dược có thể giúp Aloe vera được chuẩn bị như sau lá trên cùng được cắt càng nhỏ càng tốt, vắt ra khỏi nước. Trộn 50 ml nước trái cây, 100 g mật ong và 150 g rượu vang đỏ. Thuốc được khẳng định trong 3-4 ngày trong tủ lạnh. Lấy 1 muỗng canh. L. Trước khi ăn. Truyền truyền mẹ được nấu chín như trà. Uống 100ml 2-3 lần một ngày. Thực hiện băng gạc trên cơ sở dầu bôi của St. John hoặc thuốc mỡ Kalanchoe. Bên trong có truyền và thuốc trừ sâu các loại thảo mộc như thảo dược, lô hội, hươu cao cổ, lần lượt, hoa cúc, rong biển của St. John, hiền nhân, arnica, hoa nhài. Để ngăn ngừa tái phát, u hạt nên được chiết xuất từ Eleutherococcus hoặc Saparal - 30 giọt hai lần mỗi ngày trong 2-4 tuần. Nội vi Việc hấp thu các biện pháp điều trị vi lượng đồng căn đã không có chống chỉ định - ngoại trừ một dị ứng có thể với thuốc. Các loại thuốc này được kê đơn bởi bác sĩ điều trị vi lượng đồng căn, vì theo nguyên lý của vi lượng đồng căn, một người cần ảnh hưởng đến nguyên nhân, chứ không phải là các biểu hiện của bệnh. Với u hạt, causticum, Tuya, Grafitis, Bari carbonicum được hiển thị. Khi chảy máu áp dụng Acidum nitrikum, Tuya. Nếu tính chất tụ cầu của u hạt sinh dưỡng được chẩn đoán, thì trong giai đoạn đầu của bệnh, bệnh nhân được cung cấp Apis, Lachezis, Belladonna. Để hỗ trợ việc phòng vệ miễn dịch cho cơ thể các loại thuốc thích hợp như Crotus, Gepar sulfur, Sulphur iodate. Loại bỏ hạt u hạt mỡ Không phải tất cả các dạng hạt u hạt mỡ đều phải được điều trị bằng phẫu thuật. Ví dụ, các khối u tự nhiên nhiễm trùng, hoặc những tế bào phát sinh do phản ứng tự miễn dịch, không có ý nghĩa để xóa, vì chúng sau đó sẽ trở lại. U hạt không được loại bỏ trong trường hợp như vậy nếu hạt rất dồi dào và chúng mọc nhanh; nếu có nguy cơ tái phát của u hạt; nếu có nguy cơ lây lan các tác nhân lây nhiễm từ ổ dịch; Nếu hạt lúa mọc từ các lớp sâu; nếu có nguy cơ biến chứng từ phẫu thuật cắt bỏ khối u; Nếu u hạt bụi có thể được loại bỏ bằng cách điều trị bảo thủ. Thông thường nhất, loại bỏ được quy định với khối u tạo mô trong khoang miệng. Việc loại bỏ hạt u hạt mỡ bằng laser hiện đang được coi là loại hoạt động có chất lượng và ít tốn kém nhất theo hướng này. Dầm laser có thể ảnh hưởng rõ ràng đến khối u, không gây tổn hại cho mô lành mạnh. Bằng cách này, bề mặt các khối u của mạch máu thường được loại bỏ trong quá trình phẫu thuật, nguy cơ chảy máu được loại bỏ, và chữa bệnh xảy ra rất nhanh và không đau. Xử lý bằng laser không chỉ được sử dụng nếu kích thước của hạt u hạt mỡ vượt quá đường kính 15-20 mm. Trong trường hợp đó, bác sĩ có thể loại bỏ khối u bằng cách can thiệp phẫu thuật thông thường. Phòng ngừa Danh sách các biện pháp dự phòng để ngăn ngừa sự phát triển u hạt bao gồm các khuyến cáo chung cho lối sống lành mạnh và tăng cường phòng vệ của cơ thể. Ngoài ra, điều quan trọng là phải thường xuyên được kiểm tra bởi các chuyên gia y tế - đặc biệt là nha sĩ, bác sĩ phụ khoa phụ nữ và proctologist đối với nam giới. Nên tham khảo ý kiến bác sĩ nếu có khó khăn để chữa lành vết thương trên cơ thể. Cũng cần chú ý đến việc bảo vệ trong thời gian quan hệ tình dục không thường xuyên, để không bị nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục. [66], [67], [68], [69] Dự báo Dự báo u hạt u hạt có thể được gọi là thuận lợi. Nếu bệnh nhân yêu cầu trợ giúp y tế một cách kịp thời, và cũng tuân theo tất cả các khuyến cáo của bác sĩ, vấn đề trong hầu hết các trường hợp có thể được giải quyết tích cực. U hạt trong hang miệng thường được lấy ra bằng đường phẫu thuật, thường - cùng với một chiếc răng bị bệnh. Các thành tạo nấm tích lũy thường có thể được loại trừ bằng cách điều trị bảo tồn. Tiên đoán không thuận lợi nhất là u hạt mô hạt với một nguyên nhân và cơ chế phát triển không xác định được. [70], [71], [72], [73], [74], [75] Translation Disclaimer The original language of this article is Russian. For the convenience of users of the iLive portal who do not speak Russian, this article has been translated into the current language, but has not yet been verified by a native speaker who has the necessary qualifications for this. In this regard, we warn you that the translation of this article may be incorrect, may contain lexical, syntactic and grammatical errors.
U hạt sinh mủ là những mụn nhỏ, nổi lên và có màu đỏ trên da. Các vết sưng tấy có bề mặt nhẵn và có thể ẩm. Họ dễ bị chảy máu vì số lượng mạch máu cao tại chỗ đó. Đó là một sự phát triển lành tính không phải ung thư. Nội DungNguyên nhânCác triệu chứngKiểm tra và Kiểm traĐiều trịOutlook Tiên lượngCác biến chứng có thể xảy raKhi nào cần liên hệ với chuyên gia y tếTên khácHình ảnhTài liệu tham khảo Nguyên nhân Nguyên nhân chính xác của u hạt sinh mủ vẫn chưa được biết. Chúng thường xuất hiện sau một chấn thương trên bàn tay, cánh tay hoặc mặt. Tổn thương thường gặp ở trẻ em và phụ nữ có thai. Tổn thương da là một vùng da khác với vùng da xung quanh. Các triệu chứng Các dấu hiệu của u hạt sinh mủ là Nổi cục đỏ trên da dễ chảy máu Thường được tìm thấy ở nơi bị thương gần đây Thường thấy ở bàn tay, cánh tay và mặt, nhưng chúng có thể phát triển ở miệng thường gặp nhất ở phụ nữ mang thai Kiểm tra và Kiểm tra Nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn sẽ khám sức khỏe để chẩn đoán tình trạng này. Bạn cũng có thể cần sinh thiết da để xác định chẩn đoán. Điều trị Các u hạt nhỏ sinh mủ có thể biến mất đột ngột. Các vết sưng lớn hơn được xử lý bằng Phẫu thuật cạo hoặc cắt bỏ Đốt điện nhiệt Đóng băng Một tia laser Kem bôi ngoài da có thể không hiệu quả bằng phẫu thuật Outlook Tiên lượng Hầu hết các u hạt sinh mủ có thể được loại bỏ. Vết sẹo có thể vẫn còn sau khi điều trị. Có nhiều khả năng vấn đề sẽ quay trở lại nếu toàn bộ tổn thương không được tiêu diệt trong quá trình điều trị. Các biến chứng có thể xảy ra Những vấn đề này có thể xảy ra Chảy máu từ tổn thương Tình trạng trở lại sau khi điều trị Khi nào cần liên hệ với chuyên gia y tế Gọi cho bác sĩ của bạn nếu bạn có một vết sưng da dễ chảy máu hoặc thay đổi hình dạng. Tên khác U máu mao mạch dạng thùy Hình ảnh U hạt sinh mủ – cận cảnh U hạt sinh mủ trên tay Tài liệu tham khảo Habif TP. Các khối u và dị dạng mạch máu. Trong Habif TP, ed. Da liễu lâm sàng. Ấn bản thứ 6. Philadelphia, PA Elsevier; 2016 chap 23. Patterson JW. Các khối u mạch máu. Trong Patterson J, ed. Bệnh lý da của Weedon. Ấn bản thứ 4. Philadelphia, PA Elsevier; 2016 chap 38.
u hạt sinh mủ